Thay đổi tư duy, hành động để biến rác thành năng lượng sạch
(Chinhphu.vn) - Rác thải không là gánh nặng mà là nguồn tài nguyên chiến lược cho một nền kinh tế xanh. Nếu biết quy hoạch và đầu tư đúng hướng, Việt Nam nói chung và TPHCM nói riêng hoàn toàn có thể biến thách thức môi trường thành cơ hội năng lượng.

Tốc độ đô thị hóa, tăng dân số cơ học và mở rộng khu công nghiệp khiến lượng rác tăng trung bình 6- 8% mỗi năm tại TPHCM.
Đây là nhận định được các chuyên gia đưa ra tại Hội thảo: Biến rác thải thành năng lượng sạch, giải pháp cho phát triển bền vững diễn ra ngày 21/10 tại TPHCM.
Rác tại TPHCM chủ yếu vẫn được xử lý bằng phương pháp chôn lấp
TPHCM hiện là trung tâm kinh tế - xã hội lớn nhất cả nước, với gần 14 triệu dân, tạo ra trung bình 13.000 – 14.000 tấn rác thải sinh hoạt mỗi ngày. Tốc độ đô thị hóa, tăng dân số cơ học và mở rộng khu công nghiệp khiến lượng rác tăng trung bình 6- 8% mỗi năm.
Dù vậy, 85% rác vẫn được xử lý bằng phương pháp chôn lấp, chủ yếu tại hai khu vực lớn: Đa Phước (huyện Bình Chánh cũ) và Phước Hiệp (huyện Củ Chi cũ), khu vực Bình Dương và khu vực Bà Rịa - Vũng Tàu.
Tuy nhiên, phương pháp này đang tiêu tốn diện tích đất khổng lồ với khoảng 300ha cho mỗi bãi rác, gây phát sinh khí CH₄ (metan) - loại khí có hiệu ứng nhà kính gấp 28 lần CO₂. Ngoài ra, nước rỉ rác thấm xuống đất, ô nhiễm nguồn nước ngầm, tạo mùi hôi kéo dài hàng chục năm.
TS. Phạm Viết Thuận, Viện trưởng Viện Kinh tế tài nguyên và môi trường TPHCM cho rằng "Không có rác, chỉ có tài nguyên chưa được khai thác". Theo đó, phải xử lý đúng cách để biến rác thành nguồn năng lượng xanh. Hay còn gọi là kinh tế tuần hoàn trong tái chế chất thải.
Trong thời đại ngày nay, theo TS. Thuận, xã hội đang phải đối mặt với hai thách thức lớn nhất của nhân loại. Đầu tiên là ô nhiễm môi trường đô thị do rác thải sinh hoạt ngày càng gia tăng. Thứ hai là nhu cầu năng lượng sạch cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Theo TS. Phạm Viết Thuận, vấn đề không nằm ở việc có rác hay không, mà ở cách xử lý rác như thế nào. Nếu biết biến rác thành năng lượng thì không chỉ giảm ô nhiễm mà còn tạo ra nguồn năng lượng tái tạo, thân thiện môi trường, góp phần vào mục tiêu phát thải ròng bằng 0 - Net Zero 2050 mà Việt Nam đã cam kết tại COP26.
Theo khảo sát mới nhất, rác thải TPHCM có thành phần gồm: Hữu cơ 45%; xây dựng - xà bần 27%; nhựa, nylon 9%; đồ dùng, kim loại, chai lọ khoảng 15%. Điều này cho thấy tới 70% rác có thể tái chế hoặc tái sử dụng.
Nếu 50% lượng rác hữu cơ được chuyển hóa thành phân bón hoặc khí sinh học (biogas), và phần còn lại được đốt phát điện, TPHCM có thể tái sinh hàng nghìn MWh điện mỗi ngày, đủ cung cấp cho 100.000 hộ dân.
Dù tiềm năng lớn, việc chuyển đổi rác thành năng lượng tại Việt Nam đang gặp nhiều rào cản. Các rào cản gồm kỹ thuật - công nghệ; cơ chế - chính sách; xã hội - nhận thức.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, nếu không chuyển đổi mô hình xử lý, sau 5 năm nữa, TPHCM sẽ không còn quỹ đất chôn rác. Mục tiêu Net Zero 2050 sẽ khó đạt được, thiệt hại về chi phí môi trường, y tế và khí hậu có thể vượt xa chi phí đầu tư công nghệ.
Về phía doanh nghiệp, TPHCM đã có 5 dự án đốt rác phát điện được cấp phép với tổng công suất thiết kế hơn 340 MW, song phần lớn vẫn chưa thực hiện được do nhiều nguyên nhân.

TS Phạm Viết Thuận, Viện trưởng Viện Kinh tế tài nguyên và môi trường TPHCM
Xây dựng hệ sinh thái rác thải tuần hoàn
Đề xuất giải pháp, TS. Phạm Viết Thuận cho rằng cần xây dựng "Hệ sinh thái kinh tế tuần hoàn rác thải" liên kết Nhà nước, doanh nghiệp, khoa học và cộng đồng. Hai là hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế, giá điện, tín dụng xanh cho các dự án đốt rác phát điện. Ba là phát triển chuỗi công nghiệp hỗ trợ WtE - từ thu gom, vận chuyển, phân loại, đến tái chế tro xỉ. Cuối cùng, cần tăng cường truyền thông, giáo dục cộng đồng, biến phân loại rác thành hành vi văn minh đô thị.
"Rác thải không là gánh nặng mà là nguồn tài nguyên chiến lược cho một nền kinh tế xanh. Nếu biết quy hoạch và đầu tư đúng hướng, Việt Nam nói chung và TPHCM nói riêng hoàn toàn có thể biến thách thức môi trường thành cơ hội năng lượng", TS. Phạm Viết Thuận chia sẻ
PGS.TS. Phùng Chí Sỹ, Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, cho biết trong 20 năm gần đây, tại Việt Nam có khoảng 20 dự án đầu tư nhà máy đốt rác phát điện đã và đang được triển khai.
Tuy nhiên, cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển các dự án đốt rác phát điện ở nước ta còn nhiều bất cập, chưa đủ sức thu hút, hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước tham gia. Trong khi chi phí đầu tư nhà máy điện rác lớn và thời gian thu hồi vốn lại kéo dài, thường từ 10 - 20 năm.
PGS.TS. Bùi Thị An, Viện trưởng Viện Tài nguyên, Môi trường và Phát triển cộng đồng, Phó Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn kinh tế Ủy ban MTTQ TP. Hà Nội, cho rằng xử lý rác thải là vấn đề nóng, quan trọng, đầy thách thức. Bà cho biết hiện Hà Nội có 2 nhà máy đốt rác phát điện mới đưa vận hành mấy tháng trước. Tương lai đây cũng là mô hình có thể lựa chọn ở các địa phương.
Nhận diện một số khó khăn trong việc biến rác thải thành năng lượng, TS. Bùi Thị An cho rằng đầu tiên chính là giá đầu tư cao. Do đó, cần có sự hỗ trợ tài chính ban đầu cho nhà đầu tư để mua công nghệ, hỗ trợ từ ngân sách là phương án nên tính tới. Phải tìm mọi cách về nguồn vốn cho doanh nghiệp đốt rác phát điện.
Bên cạnh đó, ngoài tài chính thì việc cung cấp rác, cam kết để cho doanh nghiệp hoạt động, không rủi ro. Cần chính sách, thể chế cho doanh nghiệp tồn tại. Trong khi đó, thuế cũng phải nghiên cứu ở giai đoạn đầu để doanh nghiệp nhập công nghệ xanh, sạch, có cơ chế ngay từ đầu. "Nhìn rộng hơn, cần sự nhận thức của cơ quan quản lý, nhân dân để tạo hành lang ưu đãi, tín dụng xanh để doanh nghiệp có điều kiện", TS. An chia sẻ
Ngoài ra, cơ chế giá cũng phải tách rõ giá dịch vụ xử lý rác, giá sản xuất điện; bảo đảm điều kiện môi trường, áp tiêu chuẩn bảo vệ môi trường.
TS. An cho rằng, cùng với một loạt vấn đề cơ chế chính sách, địa phương cụ thể hoá, thực hiện kinh tế tuần hoàn, thu ngân sách, giảm ô nhiễm… thì có thể tạo ra đặc thù trên nền chung chính sách để tạo thế mạnh, hỗ trợ doanh nghiệp, góp phần bảo đảm phát triển bền vững, bảo đảm chất lượng sống người dân.
Lê Anh