Đối thoại về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài
(Chinhphu.vn) - Chiều 5/12, Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài TPHCM và Sở Lao động-Thương binh và Xã hội Thành phố tổ chức Hội nghị "Đối thoại về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài có liên quan đến TPHCM diện chuyên gia, tu nghiệp và xuất khẩu lao động".
Theo Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN) TPHCM, hội nghị nhằm thực hiện Chỉ thị số của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong tình hình mới.
Lao động Việt nam ở nước ngoài được đánh giá cao
Theo bà Huỳnh Lê Như Trang, Phó Giám đốc Sở Lao động-Thương binh và Xã hội TPHCM, TPHCM có tiềm năng lớn về hoạt động đưa người đi làm việc ở nước ngoài, với nguồn cung lao động dồi dào, nhiều chuyên gia kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.
Hiện Thành phố có 70 doanh nghiệp được Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cấp giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Trước năm 2020, bình quân mỗi năm, các doanh nghiệp đưa từ 10.000 - 14.000 người ra nước ngoài làm việc với thu nhập bình quân khoảng từ 15-28 triệu đồng/người/tháng. Người lao động ra nước ngoài làm việc phần lớn chưa qua đào tạo, làm công việc giản đơn.
Với những thị trường lao động truyền thống như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), người sử dụng lao động rất thích lao động Việt Nam bởi sự khéo léo, chăm chỉ và thích nghi nhanh. Tuy nhiên, thực tiễn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài tại TPHCM những năm qua cũng cho thấy, đã xuất hiện những vấn đề cần được nghiên cứu, có biện pháp giải quyết thấu đáo. Đó là hiệu quả kinh tế, xã hội của hoạt động này chưa cao, chất lượng nguồn lao động chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường, chủ yếu do trình độ ngoại ngữ còn thấp so với yêu cầu, ý thức tổ chức kỷ luật chưa cao, nhận thức về quan hệ chủ, thợ trong cơ chế thị trường chưa đầy đủ, một bộ phận người lao động không tuân thủ hợp đồng và các cam kết đã ký, bỏ ra ngoài làm việc bất hợp pháp, ảnh hưởng đến uy tín của người lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế.
Phó Đại sứ Việt Nam ở Nhật Bản Nguyễn Đức Minh cho biết, có khoảng 380.000 người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở Nhật Bản, chiếm 18% tổng số lao động người nước ngoài ở Nhật Bản. Người lao động Việt Nam ở Nhật Bản được đánh giá cao về khả năng tiếp thu, học hỏi, sự chăm chỉ.
Còn theo bà Tạ Thị Thanh Thúy, Bí thư thứ nhất, Trưởng ban Quản lý lao động Việt Nam tại Hàn Quốc, đang có gần 260.000 người Việt Nam sinh sống, học tập, làm việc ở Hàn Quốc, trong đó có khoảng 65.000 người đang làm việc. Người lao động đến Hàn Quốc theo diện hợp tác chiếm khoảng 35.000 người, lao động có tay nghề khoảng 6.000 người.
Người Hàn Quốc trong độ tuổi lao động cũng ngày càng giảm và tỉ lệ sinh ngày càng thấp. Dự kiến đến năm 2030, Hàn Quốc chỉ còn 33,8 triệu người trong độ tuổi lao động. Đến tháng 6/2022, Hàn Quốc có 230.000 chỗ làm bị trống, tập trung trong lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là ngành đóng tàu. Ngành vận tải biển và đóng tàu của Hàn Quốc cần 123.000 người lao động vào năm 2027 và trong 5 năm tới, riêng ngành đóng tàu cần 43.000 người lao động.
Hàn Quốc đã bổ sung chính sách visa để người nước ngoài dễ dàng đến làm việc hơn; cho phép thực tập sinh, học sinh, sinh viên được chuyển đổi sang diện lao động có tay nghề; tăng chỉ tiêu, tỉ lệ thu hút người lao động nước ngoài từ 20% lên 30%. Ngành đóng tàu của Hàn Quốc cũng đưa ra những yêu cầu thoáng hơn trong tuyển dụng lao động nước ngoài. Do đó, Việt Nam có rất nhiều cơ hội để đưa người lao động sang Hàn Quốc làm việc.
Ông Đỗ Minh Hoài, Trợ lý Chủ nhiệm, Trưởng ban Quản lý lao động, Văn phòng Kinh tế Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc cũng cho hay, trong 10 tháng đầu năm 2023, các doanh nghiệp đã kết nối, đưa được hơn 50.000 người Việt Nam sang Đài Loan làm việc. Tính đến cuối tháng 10/2023, người lao động Việt Nam chiếm 35% tổng số lao động nước ngoài ở Đài Loan. Thị trường này cũng đang trong quá trình già hóa dân số nên thiếu nguồn nhân lực kỹ thuật bậc trung và chấp nhận trả lương cao để thu hút người lao động.
Tuy nhiên, theo ông Đỗ Minh Hoài, hiện đang có khoảng 55.000 người lao động Việt Nam cư trú bất hợp pháp và làm việc ngoài hợp đồng, chiếm 64% tổng số lao động tại Đài Loan.
Nguyên nhân của tình trạng này là do người lao động muốn tìm công việc có thu nhập cao hơn. Cùng với đó là việc chính quyền sở tại chưa mạnh tay xử lý và số lượng cán bộ làm công tác bảo hộ công dân Việt Nam cũng rất mỏng so với số lao động hiện có.
Cần chính sách thu hút lao động có chuyên môn về nước làm việc
Ông Lê Long Sơn, Tổng giám đốc Công ty Esuhai, doanh nghiệp có tới 17 năm kinh nghiệm đưa thực tập sinh, kỹ sư, du học sinh sang Nhật Bản kiến nghị, Chính phủ cần định vị rõ hơn hoạt động đưa người đi làm việc ở nước ngoài trong tình hình mới. Trong đó, cần có lộ trình nâng cao chất lượng nguồn lao động để tăng sức cạnh tranh, nâng cao chất lượng của dịch vụ xuất khẩu lao động.
Bên cạnh đó, cần có kế hoạch quốc gia xuất khẩu lao động, xác định rõ số lượng, ngành nghề, thị trường cần ưu tiên, mục tiêu về lượng ngoại tệ gửi về nước, chất lượng người lao động khi về nước…
Đặc biệt, cần xác định rõ việc đưa người đi làm việc ở nước ngoài là hoạt động đào tạo, nâng cao tay nghề, chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn trong hệ thống trường trung cấp, đại học và cao đẳng. Hướng việc xuất khẩu lao động đến những đất nước phát triển, có thế mạnh về các ngành nghề mà Chính phủ khuyến khích phát triển kinh tế trong nước.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Quốc Bảo, giảng viên Trường đại học Tôn Đức Thắng, cho rằng, việc đưa người đi lao động ở các nước tiên tiến ngoài đóng góp vào lượng kiều hối hằng năm, còn góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ông kiến nghị, để hoạt động xuất khẩu lao động đóng góp hiệu quả vào sự phát triển kinh tế đất nước, các cơ quan chức năng nên có nhiều chính sách thu hút chuyên gia người Việt ở nước ngoài về nước làm việc.
Phát biểu tại hội nghị, bà Vũ Thị Huỳnh Mai, Chủ nhiệm Ủy ban về NVNONN TPHCM bày tỏ mong muốn thông qua hội nghị, thiết lập một kênh liên lạc hợp tác hiệu quả và bền vững giữa các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức, doanh nghiệp trong việc quản lý và bảo vệ quyền lợi của người lao động, chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài.
Đây cũng là dịp để kiều bào tại các nước chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm nhằm tạo điều kiện tốt nhất để người lao động, chuyên gia của Thành phố có thể thăng tiến và phát triển tại thị trường nước ngoài.
Ngọc Tấn